Cạnh nhà tôi có một cái ao , thỉnh thoảng một đàn cá chày nổi lên bơi lượn sát mặt nước . Nhìn những con cá với những chiếc đuôi , kỳ , vi... màu đỏ cam thật đẹp , tôi rất thích, muốn có để thả trong chậu chơi .
Rồi nghe ai đó nói ‘’ cá chày thích ăn hột cam , hột quít ‘’ , tuổi thơ không phân biệt được thật , hư , tôi liền đi sắm 1 cái cần câu . Tôi chặt 1 cành tre , róc mắt, lá làm cần ; lấy chỉ may của mẹ tôi , nhập lại làm nhợ ; rút cọng kim loại trong quyển tập ( agrafe ) làm lưỡi câu . Thế là cái cần câu ngộ nghỉnh thành hình , tôi lấy 1 hạt quít lột bỏ phần vỏ cứng , móc vào lưỡi câu và đem ném xuống ao . Có lẻ tưởng con côn trùng nào đó rơi , 1 con cá chày ngoi lên đớp lấy hạt và lôi đi . Tôi giật mạnh cần , con cá không dính ở lưỡi câu nhưng văng lên bờ giãy đành đạch .Mừng quýnh , tôi quăng cần , chạy đến bắt con cá đem thả vào chậu . Con cá không ngớt quẩy đuôi , thỉnh thoảng hút đầu vào thành chậu tìm lối thoát , lát sau đuối sức rồi chết , tôi tiếc hùi-hụi .
Hôm đó , mẹ tôi nấu canh chua cá lóc , khóm , bạc hà .... , tôi gởi ké con cá chày , nồi canh chua mẹ tôi nấu ngon tuyệt , nhưng ngon nhất có lẻ là con cá chày do chính tay tôi câu .
Cá chày
Ra quân lần đầu tiên , kết quả khả quan , tôi bắt đầu thích câu cá từ đó .
Cũng năm đó , tôi lên ban đỏ , Mẹ tôi vốn luôn vất vả vì sinh kế để nuôi Nội tôi và 2 chị- em tôi ,nay phải thêm nhiều âu lo , nhưng bà càng cưng chiều tôi : ngoài những cục đường phèn , những chiếc kẹo đèn cầy để dổ tôi uống những chén thuốc bắc đắng nghét ; sau những buổi chợ mẹ tôi còn quà cho tôi khi thì khúc mía tây , mía thanh diệu ,khi thì chùm trái vải, chùm gương sen hay Củ co , củ ấu... , nhưng thích thú nhất là Mẹ tôi sắm cho tôi chiếc cần câu thật đẹp với lưỡi câu mua ở tiệm và được tóm bằng sợi nhợ nylon .
Khi tôi sắp hết bệnh , mẹ tôi cho phép tôi được đi câu ở nhà 1 người quen . Người quen đây là gia đình bác Ba . Vài năm trước , vợ- chồng Bác Ba không rõ từ đâu đến xin tá túc nhà tôi . Nội tôi thương tình cho phép cất 1 căn nhà sàn trên đất gia đình tôi và cho 1 mảnh đất nhỏ để trồng trọt . Bác Ba trai là lính Lê Dương giải ngủ , Bác qua đời sau đó vài năm . Bác Ba gái làm bánh tằm , bánh khoai mì , bánh xếp ... để độ nhật và nuôi cô con gái nuôi : chị L , lớn hơn tôi vài tuổi , chị thật đẹp .
cá lòng tong
cá chốt
Từ hiên nhà Bác Ba , khi nước lớn có thể câu cá được , do đó khi được mẹ tôi gởi xuống đây , đợi khi nước lên , tôi rải ít cám để nhử cá , rồi với chiếc cần câu mới toanh mỗi hôm tôi câu được 1,2 chục con cá lòng tong đá , đôi khi còn câu được cá he nghệ nhỏ , nhưng nhìn những con cá với đuôi , kỳ ,vi màu đỏ thật đẹp tôi không nở ăn thịt nên thường đem thả nuôi ở ao nhà . Thỉnh thoảng tôi cũng câu được cá chốt , nhưng ngạnh cá chốt đâm phải thì nhức khủng khiếp , nên mỗi khi dính cá chốt thì hoặcBác Ba hoặc chị L phải gở giùm tôi .
Tôi càng ngày càng mê thích câu cá , do đó suốt tuổi học trò từ tiểu học đến đại học mỗi khi có dịp tôi đều đi câu .
Sau kinh nghiệm với cá lòng tong , tôi câu đến cá bóng . Trong họ hàng cá bóng thì to nhất là bóng tượng , bóng cát , nhưng chúng chỉ sống ngoài sông , rạch nên rất ít khi câu được ; bóng kèo , bóng xệ , bóng trân ... thì ít , chỉ có bóng dừa là nhiều nhất . Cá bóng dừa thích ở nơi cạn , kín đáo như hang , mội , bọng dừa , bọng cau , ống tre , trái dừa sóc ... cá rất háu ăn nên rất dễ câu . Chỉ cần 1,2 giờ câu , tôi đã có thể có được 1 gáo dừa đầy cá bóng . Cá bóng dừa đem xát tro , chà vảy , kho tộ với tiêu , mở , hành ăn với cơm hay cháo đều thật ngon .
cá bóng cát
cá bóng dừa
Cùng cở lưỡi câu câu cá bóng là cá rô , do đó những khi có ít cá bóng hoặc nước lớn tôi ra ngoài ruộng để câu thêm cá rô . Trừ cá rô hạt mít ( cở ngón tay ) háu ăn , dễ câu còn cá rô lớn rất nhát nhất là những nơi nước phèn trong , nên câu cá rô thuận lợi nhất là sau cơn mưa nước trở nên đục , tầm thấy của cá kém đi . Cá rô dễ câu mùa mạ lúa vừa cấy , cá lên ăn cào cào , châu chấu bám cây lúa . Cá rô ăn mồi trùn , tép ương , cào cào , châu chấu nhỏ nhưng thích nhất là nhọng ong con hoặc trứng kiến vàng .
cá rô
Một trong loại cá đồng có thịt ngon nhất là cá lóc . Cá lóc có thể làm mắm , xẻ khô , hấp , đúc lò , nấu canh chua ... nhưng hấp dẩn nhất có lẻ là món cá lóc bọc đất sét nướng lửa rơm , sau đó bóc vảy , phết bơ hay thoa mở hành nướng lại , ăn với bánh tráng , rau sống , khế , chuối chát , mắm nêm ... thì tuyệt cú mèo .
cá lóc
cá lóc nướng
Tôi chưa từng câu cá lóc bằng cách câu rê ( vì hơi phức tạp ), cũng chưa bao giờ câu theo lối câu cắm ( vì mẹ tôi không cho phép đi đêm , có lẻ bà sợ tôi bị ma con gái bắt ). Cá lóc thích ở những nơi rậm rạp , ưa lên nơi cạn để nghỉ hoặc săn mồi , do đó chỉ cần móc 1con trùn hoặc 1 khúc ruột gà , ruột vịt vào lưỡi câu đặt ở những nơi đó , lát sau sẽ dính được 1 con cá lóc .
Cá lóc dễ câu và nhiều nhất vào đầu mùa mưa , mùa cá đẻ . Theo dỏi cá dẩn đàn con ( cá lòng ròng còn màu vàng cam ) đi ăn và lợi dụng trời chạng vạng tối , móc vào lưỡi câu 1 con nhái nhỏ hoặc 1 con thằn lằn đem rê rê ngay đàn lòng ròng , để bảo vệ đàn con , cá lóc cha , mẹ sẽ không ngần ngại tấn công con mồi và bị mắc câu .
Năm 70 , tôi có nhiệm vụ tuần tiểu bờ biển Cà-Mau , Rạch-Giá , Hà-Tiên , Phú-Quốc , một lần từ vịnh Rạch-Giá trở ra biển , tôi thấy 1 chiếc ghe máy chở đầy thùng bằng tôn đục lổ . Điều này thật lạ , vì không ai dùng thứ thùng đó để đựng cá biển . Tôi giả bộ không để ý , cho tàu ra khơi nhưng vẫn mở radar . Lúc này trời đã sẩm tối , chiếc ghe ra khỏi vịnh , chạy dọc theo bờ biển , rồi đi vào vùng cấm ( vùng tác xạ tự do ) , ít lâu sau thì đâm thẳng mũi vào bờ . Khoảng mươi phút sau thì trở ra , quay mũi hướng về đường cũ . Tôi cho tàu tăng vận tốc chặn xét . Thì ra là những con buôn liều lĩnh vào vùng cấm để mua cá đem về Rạch-Giá bán lại kiếm lời . Chiếc ghe máy giờ đã khẳm lừ ,những chiếc thùng chứa đầy cá lóc , những con cá đen mun to cở bắp vế . Quê tôi cũng có nhiều cá lóc , nhưng chưa bao giờ tôi thấy to được như thế ( Sau này , xem émission Cousteau tôi còn biết ở vùng Amazone có những con cá lóc thật to nặng hơn 100 kí lô ).
cá trê
Ngoài cá lóc ra , quê tôi cũng có nhiều cá trê . Cá trê trắng thì nhiều hơn , còn cá trê vàng hơi ít , vì lẻ trong mỗi đàn cá trê con , tất cả đều là trê trắng chỉ có vài con là trê vàng . Trê vàng mà đem nướng lửa than , chan thêm mắm gừng , ăn rất ngon miệng .
Cá trê thích mồi hôi thối và rất háu ăn , gặp mồi là nuốt ngay nên tuy dể câu nhưng rất khó gở lưỡi câu .
Hồi tôi làm việc ở Mỹ-Tho , có lần đi kiểm tra chiếc cầu nổi ( ponton )tôi phát hiện 1 ổ cá trê lớn sống dưới gầm cầu . Sau đó , mỗi đêm đợi khi nước ròng sát , tôi đến câu 1 ,2 kí lô cá trê thật dễ dàng . Ít lâu sau , nhân viên tôi biết cũng đến câu , thậm chí còn lén dùng vợt điện để bắt cá . Đàn cá hoảng sợ bỏ đi hết .
Cũng thời làm việc ở Mỹ-Tho tôi còn có dịp câu cá bông lau và câu tôm .
Nếu trước kia , hồi học ở Nguyễn-Đình-Chiểu , tôi chỉ được tháp tùng ông chủ nhà trọ đi câu cá bông lau ở gần cù lao Rồng , thì lần này tôi chủ động câu cho chính tôi .
Cá bông lau sống nơi nước ngọt và nước lợ , thuộc loại ăn tạp : trùn, thịt bò , hotdog , ruột gà - vịt , con dán , ... đều thích . Nhưng những thứ mồi này cá khác cũng thích ăn , còn mồi dán thì hơi nguy hiểm vì trong con dán thường có loại vi trùng hoại huyết và chân con dán cánh có rất nhiều gai dễđâm vào tay khi ta móc mồi . Tôi thì thích câu với mồi cơm cháy . Mồi này thì chỉ có cá bông lau ăn, hơn thế mồi cơm cháy cứng ngâm trong nước sẽ trở nên mềm , khi cá ăn ta giật mạnh mồi sẽ rả ra , lưỡi câu sẽ dể đâm sâu vào miệng cá . Cá bông lau có rất nhiều ở sông Mỹ-Tho , Sông Sài-Gòn ... nhưng nhiều nhất có lẻ là ở sông Bồ-Đề ( Cà-Mau ), ở miệt rừng U-Minh cá ăn cả trái mắm và bị say , nổi lờ đờ trên mặt nước , có thể dùng vợt bắt được dễ-dàng .
Thú vị nhất trong việc câu có lẻ là câu tôm . Ở quê tôi , người ta câu tôm ban đêm , không dùng lưỡi câu mà chỉ xỏ trùn làm 1 khoanh lớn hoặc dùng 1miếng cơm dừa khô làm mồi . Khi tôm đến ăn , thì nâng từ từ cần lên và dùng vợt bắt tôm .
tôm càng
tôm nướng
Khi tôi vừa thuyên chuyển về Mỹ-Tho , hết giờ làm việc tôi thấy thật đông SQ và nhân viên xuống cầu tàu câu , tò mò tôi đến xem , thì ra họ câu tôm bằng cần câu với lưỡi câu . Vài hôm sau tôi nhập cuộc và chẳng bao lâu tôi trở thành vua câu tôm của trại .
Lưỡi câu tôm thì có hình dáng hơi giống chiếc liềm , khi tôm ăn thì phăng nhợ lên và không giật cần như khi câu cá . Tôm rất thích mồi hà ( một loại trùn sống dưới bùn , có nhiều máu và mềm hơn trùn đất ) , Ở sông Mỹ-Tho tôm có nhiều nhất khoảng tháng 10 dl , danh từ chuyên môn gọi là tôm xổ , khi mà nước phèn từ trên thượng nguồn đổ xuống lùa tôm chạy dồn đi tìm nơi ít bị xót mắt . Vào dịp đó , chỉ với 2 cần câu , mỗi cuối tuần tôi có thể câu được vài kí tôm dễ dàng .
Tôm càng sen cái nhiều gạch , nhiều thịt hơn tôm đực , đem nướng lửa than , xé thịt trộn gỏi với ngó sen , rau thơm ... ngon hết xẩy .
lươn
lươn cắt khúc
canh chua lươn
lươn xào lăng
Một trong những loài cá đồng được mọi người ưa chuộng là lươn . Lươn không có kỳ , vi , thịt không có xương nhánh . Lươn chế biến được rất nhiều món ăn như : xào lăng , um, lẩu ... nhưng độc đáo nhất phải kể đến món dồi lươn ăn với mắm me thì ngon tuyệt .
Câu lươn phải cần đến lưỡi câu thật cứng ( thường làm bằng kèo dù ) và nhợ thật chắc . Lươn là loại ăn đêm , ngày ẩn trong hang . Lươn thích mồi trùn hổ hoặc cá thòi lòi . Lươn tương đối nhác và càng lớn thì càng khôn ngoan , do đó câu lươn cần phải thật kiên nhẩn . Phải dùng 1 cọng sậy hay 1 nhánh tre nhỏ để giúp đưa mồi vào sâu trong hang , rồi khi lươn ăn phải dùng khá nhiều sức , thêm chút kỹ thuật mới kéo lươn ra được khỏi hang .
Sau cá đồng , tôi cũng có dịp câu qua 1 loại cá trắng : cá mè vinh . Cá mè vinh thuộc loại ở sông , ăn nổi trên mặt nước khi nước lớn . Cá nuôi trong bè ở Châu-Đốc , Kiến-Phong , Hồng -Ngự , ... thì thức ăn là lúa , cám , bèo , dưa hấu , bí đỏ , cà tô mát, xà lách ...nhưng trong thiên nhiên thì cá rất thích ăn lá cứt quạ . Do đó , muốn câu cá mè vinh thì cột 1 chùm lá cứt quạ đã ngắt bỏ hết lá non , treo sát mặt nước , khi cá đến ăn ( thấy chùm lá bị rung động ) thì thả lưỡi câu đã móc sẳn miếng lá non , thấy mồi ngon cá sẽ ăn ngay . Cá mè vinh chiên vàng , ăn với nước mắm chanh , tỏi , ớt thêm chút xoài sống băm rất ngon nhưng đem hấp với tương hột , kim châm , nấm mèo ... thì cũng không ai có thể chê được .
cá mè vinh
cá he nghệ
Ngoài việc câu bằng cần , tôi cũng có thử qua kiểu câu giăng . Dụng cụ câu thì gồm 1 đường dây nhợ thật chắc , dài hàng trăm thước với thật nhiều lưỡi câu . Một đầu nhợ buộc vào cục gạch thả chìm dưới đáy sông , đầu kia cột vào 1 phao nổi thường là trái dừa điếc . Mồi câu là trùn hổ , tép hay con bà chằn ( một loại ốc không vỏ , thịt rất dai ). Nơi thả câu lý tưởng là ngả 3 sông hoặc giao điểm của sông và 1 con lạch lớn . Vì đường dây có rất nhiều lưỡi câu nên tỉ lệ cá bắt được ( thường là cá ngác , cá út , cá lăng , cá phèn , cá cốc , cá thác lác ... ) cũng nhiều hơn câu bằng cần , nhưng câu giăng cũng có điều bất tiện là phải có xuồng để thăm câu , ngoài ra phải luôn canh chừng để xuồng , ghe qua lại không cầm nhằm .
Sau cá đồng , cá sông , tôi câu đến cá biển . Cá biển thì trừ một số ăn phiêu sinh vật ( plancton ) , rong , san hô ... còn hầu hết đều thuộc diện cá lớn nuốt cá bé , do đó mồi câu thông dụng là tép sống , con mực , mồi giả bằng nhựa có dạng giống con cá , con mực ... .
Với những loại cá ăn rong hoặc có miệng nhỏ , phải dùng lưỡi câu chùm để câu . Khi cá đến ăn mồi được móc trên chùm lưỡi câu , ta giật mạnh cần , chùm lưỡi câu sẽ móc vào thân cá . Trong những loại cá này có cá dìa thịt rất ngon .
cá dìa
Năm 68 , những khi tuần dương tàu chạy với vận tốc chậm , chúng tôi thường kéo theo 1 , 2 dây câu thật dài , đầu nhợ có 1 phao nổi , lưỡi câu và mồi là cái lông vịt trắng . Thật đơn giản , nhưng thỉnh thoảng cũng bắt được vài con cá thu nặng dăm , ba kí . Vùng vịnh Phú-Quốc và khu vực cù lao Ré ( Quảng-Ngải ) có rất nhiều cá thu .
Có lần , ngoài khơi cửa Ba-Động ( Vĩnh-Bình ) , tôi câu được 1con cá đuối nặng hơn 30 kí lô . Biển V.N có rất nhiều cá đuối , nhất là ở vùng quần đảo Hải-Tặc ( iles des Pirates - gần Hà-Tiên ) và khu vực cửa Gành-Hào . Thịt cá đuối hơi khai , nên không được chuộng lắm , chỉ thích hợp để nấu ca-ry , canh chua hoặc làm khô .
Cá đuối
Vùng biển Vĩnh-Bình cũng có rất nhiều cá nóc , 1 loại cá độc ( poisson poison ) ăn có thể chết , nên ít người V.N nào dám ăn , nhưng người Nhật-Bản thì rất sành ăn và để được chế biến thức ăn từ cá này , người đầu bếp Nhật phải qua 1 khoá học đặc biệt khá lâu (khoảng 3,4 năm ) và phải tốt nghiệp với bằng cấp .
Vùng sông Dinh ( Bà-Rịa , Vũng-Tàu ) vào đầu mùa mưa có từng đàn hàng vạn , hàng chục vạn cá nóc nhỏ cở ngón chân cái bơi sát mặt nước , tiếc thay không ai có ý bắt nuôi để xuất cảng sang Nhật ( 1 kí cá nóc ở Nhật giá khoảng 15 đô la ) .
cá hanh
cá mú
Cá biển ngon có : cá hanh ( daurade ), chim , thu , mú (merou )...v.v . Riêng cá mú thích sống ở những nơi có hang , động , đá ngầm , san hô ...do đó câu cá này phải thật cẩn thận để tránh nhợ bị san hô cắt đứt . Khu vực Hoàng-Sa có rất nhiều cá mú lớn .
Thịt cá mú đem chiên , chưng hay nấu ca-ry đều rất ngon .
Năm 69 , khi công tác ở Phú-Quốc , nhiều lần tôi được tham dự câu mực ( còn gọi là thẻ mực ) với những người thợ câu chuyên nghiệp .
mực ống
mực nan
Dụng cụ thẻ mực thật đơn giản gồm : 1 chiếc đèn thật sáng , 1 chiếc vợt cán ngắn , 1 dây câu khoảng 10 m với 2 , 3 lưỡi câu và 1 cục chì ở đầu nhợ .
Trước khi trời tối , người câu mực đem ghe nhỏ đến neo sẳn ở khu vực có nhiều mực cách bờ vài cây số , nước sâu khoảng 5 , 7 thước .
Khi trời tối , đèn được thắp sáng và treo ở thành ghe . Mồi câu là con mực hoặc miếng vải trắng nếu chưa có sẳn mồi mực . Khi cục chì của dây câu vừa chạm đáy biển , nhợ được phăng lên , cá mực theo mồi lên đến mặt nước thì bị chói đèn và bị vớt bỏ vào ghe . Mùa thẻ mực ở P.Q kéo dài 4 , 6 tháng , người câu giỏi và trúng mỗi đêm có thể bắt hơn trăm kí mực .
Mực ống , xẻ , rửa sạch bằng nước biển , phơi 2 nắng , đem nướng bằng alchool hoặc rượu đế , nhậu với củ kiệu , uống bia lạnh thật ngon , nhưng món dồi mực : râu mực băm với thịt ba rọi , ướp tiêu , hành , tỏi ... dồn vào thân mực đem hấp rồi chiên lại , cuốn với bánh tráng , rau sống , chấm mắm nêm thì ngon hết xẩy .
mực xào
khô mực
mực nhồi
cua biển
rùa
Tuổi trẻ của tôi thật hiếu động , hiếu sát , nên từ cửa Việt ( vĩ-tuyến 17 ) đến Cà-Mau , Phú-Quốc ; từ chốn biển khơi đến đồng bằng Cử-Long , những sông ngòi , kênh , lạch mà tôi đã đi qua ; thậm chí cả thời đi tù ở miền Bắc , do nghiệp chướng dẩn lối , tôi đã sát hàng hà , sa số tôm , cá và tôi đã hảnh diện về những thành tích đó , cũng như đã thật vui thích khi được xưng tụng là vua câu , bắt tôm cá .
Ngày nay , từ khi bước vào đường thiền , tôi nghiệm ra rằng :’’ con người sống trên trường đời cũng giống như con cá tung tăng bơi lội trong sông , hồ hay biển cả . Khôn ngoan đến đâu rồi cũng có khi bị mắc bẩy và mồi càng hấp dẩn càng hiểm nguy . Con người khi bị mắc bẩy dù là bẩy tình hay bẩy gì cũng đều khổ sở , đớn đau , nhưng sự khổ đau đó chắc chắn không thể sánh với việc mắc bẩy lưỡi câu của cá . Cá dẩy dụa , oằn oại , rên xiết ... và chờ chết , nhưng ta vô minh đã không biết được điều đó . Chính vì nghĩ thế , mà từ hơn 2 thập niên nay tôi đã buông dao đồ tể " .
Paris , xuân Ất Dậu 2005
TKD
Paris , xuân Ất Dậu 2005
TKD
***
Aucun commentaire:
Enregistrer un commentaire