Tản mạn về những món ăn nhớ đời
Tháng 6 .1975 , tui đi tù VC ở Trại Long
Giao – Long Khánh .
Giai đoạn đầu sách lược của VC đối với tù
binh VNCH chưa rõ rệt , doanh trại lại có sẵn ( là khu gia binh của Trung Đoàn
48 – Sư Đoàn 18 Bộ Binh /VNCH) nên sinh hoạt của chúng tôi ngoài lần đi
tháo gở phi trường Long Khánh để lấy đất trồng khoai mì , chỉ quanh quẩn làm vệ
sinh , dọn dẹp chỗ ở , học tập vài bài chính trị vớ vẩn ..., thời giờ còn lại
thật rảnh rổi , chỉ giải trí và chế tạo quà cho người thân.
Thời gian ở trại này chúng tôi chưa ăn độn
mà chỉ phải ăn gạo mục ( lấy tay bóp nhẹ , hạt gạo sẽ nát ra như
bột , thường 1 chảo cơm nấu với 4 thau gạo , nhưng số sâu vớt ra đã
gần 1 thau và trong mỗi chén cơm vẫn còn sót khoảng 20 con sâu gạo ) , ăn
với 1 món cá biển kho và món canh bí hoặc cải nấu với muối .
Ngày 2 bữa và mỗi bữa chỉ 1 chén cơm với chút cá kho
và canh , không thoả mản được sự kêu gào của bao tử , nên mọi thứ
đều được tận dụng như bí đao , bí đỏ thì không bao giờ bỏ vỏ , còn xương
cá thì có một số bạn tù nhặt hết đem giã nát trộn với muối làm món chà bông ,
cơm cháy khét thì chế thành món cà phê Long Giao .
May cho chúng tôi là Tiểu Đoàn Bộ Binh VC quản
lý không khắt khe lắm , những Cán Bộ Quản Giáo Đội thường nhận ra
Long Khánh mua giùm đường , đậu phọng , hạt giống rau để trồng nhằm
« cải thiện » thêm cho bữa ăn .
Trong trại có 1 cái hố chứa đồ vứt bỏ của những
bà nội trợ vợ lính thời trước , lâu ngày biến thành phân màu
mở , chúng tôi lấy đem trồng rau lang , dền ... thật tốt .
Có mấy Ông Bác Sĩ Quân Y làm bẩy bắt chuột để ăn
. Thường khi bắt được chuột họ không thịt liền mà đem nhốt
chuột vài hôm cho « sạch sẽ » ( chỉ nhốt khơi
khơi chớ hổng thấy lấy sà bông thơm tắm rửa chuột ) , xui là có lần bị 1
Ông Tuyên Uý Phật Giáo lén thả hết chuột , mấy vị Bác Sĩ cự nự thì bị lên
lớp là " BS mà không biết giữ vệ sinh ăn chuột bẩn lại phạm tội sát
sanh " .
Ngoài việc bắt chuột để ăn , tù còn lùng bắt dế
cơm (LK là vùng đất đồi có rất nhiều dế cơm to hơn ngón tay
cái) .
Vì nước thật hiếm nên không thể dùng nước làm ngập
hang cho dế ngộp , nên 1 bạn tù và tui dùng 1 cây cuốc chim để bắt dế .
Thường sau cơn mưa dế cơm đùn đất lên trên miệng hang , chúng tôi
chọn những hang có đất mới để đào , nhưng dế cơm khôn lắm luôn làm
những hang ngách phụ nên đào 10 hang hoạ hoằn chỉ bắt được 1 – 2 con .
Chúng tôi , mỗi đứa đào 1 hang riêng , lần đó
tui không tìm thấy dế nên đến chỗ Anh bạn để lấy cuốc thì chứng kiến 1 điều
thật lạ lùng : » Anh bạn dùng tay phải moi phần đất đã cuốc , không
ngờ bên dưới có 1 mảnh ve chai cắt đứt tay , máu tuôn ra , Anh liền dùng
bàn tay trái vẽ gì loằn ngoằn trên không rồi vuốt chỗ bị đứt , vết
thương ngưng chảy máu và liền trơn . Tui là dân học toán – lý – hoá hổng tin ma
– quỷ – bùa – ngải , nhưng HÁ HỐC mồm . Anh
bạn ra dấu yêu cầu tui không nói lại gì với ai . Tui gật đầu hứa .
Sau đó tui bị đưa ra Bắc , còn anh ta ở lại trong Nam - vì thuộc thành phần kỹ
thuật .
Hồi trước , tui đi học rồi đi lính , nhưng thời gian
tù ở trong Nam tui học được của những Bạn tù rất nhiều
điều như dùng tôle gò thùng , nồi , lon ... , làm lược bằng thanh
cọc lều , làm kim bằng lò xo của băng đạn M16 , làm vòng semaine bằng ống hoả
tiển chống tank M72 (hợp kim nhôm) , rèn dao , tháo bao cát đánh dây
luộc ,đẻo gỗ làm guốc , chày ... ,làm sắc du lịch với khung kẻm gai
và vải áo giáp ... và nhất là tháo chỉ nylon của áo giáp để sau này làm
nhợ câu , làm bẩy chim ( hồi đó tui chưa biết sờ mu rùa , cũng không đoán
được phải đi luyện chưởng lâu , mà chỉ là việc làm ngẩu nhiên thôi ) .
Thời ở trại Long Giao , chúng tôi bắt đầu được nếm
mùi ĐÓI , nhưng hoạ thì vô đơn chí .
1.200 tên tù mà chỉ có 1 cái giếng nước ưu tiên
dành cho bếp , nên chúng tôi phải tự đào thêm giếng . Các Vị
SQ Công Binh lúc này có dịp trổ tài tìm mạch nước , nhưng thường trật lấc , hoạ
hoằn mới ngáp được ruồi .
Long Khánh là vùng đất cao , nên chúng tôi thường phải
đào giếng sâu 15 – 20 m mới có được chút nước , bản thân tui thì lần đầu thấy
được đất có thật nhiều lớp như bánh da lợn .
Do thiếu nước nên việc tắm giặt thật khó khăn ,
nhiều khi kéo nước từ giếng thật sâu nhưng chỉ lấy được 5- 10 lít nước
bùn , phải chờ bùn lắng ,chắt lấy phần nước trong để dùng . Có thể
do vấn đề vệ sinh không tốt nên thời này dịch ghẻ hoành hành .
Nhiều khi tù phải trần truồng như nhộng đứng xếp hàng cho cô Y Tá VC cầm
cây cọ sơn lớn chấm vào thùng bột DDT ( thế giới đã cấm dùng ) phết lên
cơ thể tù đầy ghẻ ( thân như có gắn đầy hạt đậu đen ).
Tui cũng bị ghẻ nhưng chỉ ở bàn tay , mỗi sáng thức
dậy sau màn thể dục tập thể , tui phải nấu nước sôi dùng bông gòn rửa mũ
, thoa thuốc đỏ rồi giả đọt lá dâm bụt , cỏ lữ đồng ... đắp trị hết ghẻ .
**
300 đứa chúng tôi bị chỉ định tù ở tỉnh Yên Bái
gần Trại 2 tù Đại Tá và Trại 5 tù Trung Tá
.
Ngày đầu tiên , 100 người tù lán bạn khi phát quang cây cỏ , có người phải lội xuống 1 ao nước đọng và bị nhiểm vi khuẩn bệnh sốt vàng da và trong đêm đã có 1 anh tù chết . Anh Bạn cùng khoá HQ với tui cũng bị sốt vàng da , nhưng may mắn thoát chết – anh hiện sống ở Bắc Cali .
Ngày đầu tiên , 100 người tù lán bạn khi phát quang cây cỏ , có người phải lội xuống 1 ao nước đọng và bị nhiểm vi khuẩn bệnh sốt vàng da và trong đêm đã có 1 anh tù chết . Anh Bạn cùng khoá HQ với tui cũng bị sốt vàng da , nhưng may mắn thoát chết – anh hiện sống ở Bắc Cali .
Tui ở Trại này chỉ hơn
tháng thì bị chuyển sang Trại 10 cũng thuộc Đoàn 776-
Hoàng Liên Sơn . Tù nhân của Trại 10 hầu hết
thuộc ngành An Ninh , Tình Báo và Tuyên Uý (Phan Nhật Nam , Phan
phát Huồn , Lê Quang Văn - em Ông Ba Cụt Lê Quang Vinh ...) .
Số là trại cũ ở gần
trại bò lục (Đại Tá) và mỗi khi chúng tôi đi lao động đều phải đi ngang
trại này , dỉ nhiên khi gặp mấy Ông Xếp cũ thì thường chào lén . VC thấy không ổn
nên chuyển chúng tôi đến trại mới cách đó khoảng dăm bảy cây số .
Trại tù mới này nằm
trong " u tịch cốc " , muốn vào trại phải vượt
qua một vùng đất lầy , lún, phải thả vài cây bồ đề lên trên để
đi .
Chúng tôi san
bằng 1 ngọn đồi nhỏ , bao quanh bởi 1 con suối đầy lau sậy để xây cất trại tù
với tất cả nguyên liệu do thiên nhiên cung cấp : gỗ , tre , dây mây , cỏ ,
đất . Trại tù thành hình nhưng VC hổng tốn 1 xu .
Thời này tuy cũng có
học ôn lại mấy bài học chánh trị bá láp và trồng một ít sắn , nhưng chủ
yếu là xây cất lán cho tù và cho bộ đội ở . Trước kia , trừ việc
làm nhà chòi hồi còn nhỏ , tui có biết xây cất , mộc , nề ,
gì đâu , nhưng sau khi ra tù tui giúp hàng xóm lợp nhà , sửa bàn ghế ,
xây tường ... ngon lành .
Thậm chí nếu phải sống
trong rừng hay hoang đảo mà có cây cưa ,cái búa hay tối thiểu 1 con dao tui
cũng tự cất được 1 cái nhà dễ dàng .
Việc ăn uống của tù ở
Trại 10 thì hoàn toàn khác với khi ở Long Giao . Lần đầu tiên chúng tôi
biết được từ " ăn độn " . Không phải ăn gạo
mục nữa , nhưng ăn toàn bắp xay (nát nhưng chưa thành bột
) ,khoai mì , nước muối , không có bầu , bí gì hết chỉ
thỉnh thoảng có bánh bột mì , đường cát đen , ngày lễ lớn như 2 tháng 9 , ngày
tết thì có tí thịt lợn .
Dỉ nhiên là chúng tôi
đói phờ râu , nhưng bộ đội không quá khắt khe . Chúng tôi chỉ lao
động từ thứ hai đến trưa thứ bảy sau đó được phép tự tìm rau cỏ để cải thiện
thêm .
Phần tui , lợi
dụng mùa mưa suối có nước , có cá , thường câu được ít cá lòng tong ,cá bả trầu
, cá trạch , hoặc hái lá mối vò làm sâm ăn , ngoài ra còn hái lá lốt
, rau má dồn đầy 2 cái bao cát để ăn dần trong tuần , thỉnh thoảng đi
rừng đốn giang , nứa tui cũng kiếm được bắp chuối , măng hay đọt giang .
Sở dỉ tui ăn nhiều lá
lốt vì Anh Trung Tá Trưởng Phòng 2 SĐ2BB cho tui biết là nhờ dùng nhiều lá lốt
mà trước kia Anh thoát được bệnh bán thân bất toại .
Miền Bắc
rất nghèo , bộ đội cũng ăn đói và dỉ nhiên tù càng đói hơn .
Có 1 Anh tù Thiếu Tá
trốn trại . Anh trốn vô rừng , nhưng rừng miền Bắc cũng khác rừng miền Nam ,
hổng có trái gì để ăn nên 21 ngày sau phải trở vô trại trình
diện .
Anh bị cảnh cáo nhưng
không bị cùm mà chỉ bị " cách ly " trong 1 cái
chòi cạnh con suối . Anh lấy bùn của suối đấp luống và gieo hạt cải mang
theo từ miền Nam , kết quả ngoài sự tưởng tượng , cải thật
xanh tốt và 4 tên tù chúng tôi được lệnh gánh lên nộp cho Bộ Chỉ
Huy Của Liên Trại ( 14 trại ) – Dịp này , được sự thông cảm
của " 1 Chị Nuôi " chúng tôi chớp được miếng cơm
cháy lớn dành nuôi lợn , bẻ chia làm 4 , giấu trong túi áo và nhâm nhi
khi trên đường trở về trại . Ôi miếng cơm cháy ngon tuyệt vời .
Dù tù nổ lực "
cải thiện ", nhưng rau cỏ quanh trại cũng có hạn , nên vài người tù đã
bỏ mình do việc ăn uống thiếu thốn .
Anh Tuyên Uý Phật Giáo
phụ trách nuôi heo , lợi dụng mỗi ngày lên rừng đốn chuối rừng về xắt nấu
với rau trai và muối cho heo ăn , Anh đã lén ăn sống vài lỏi chuối , ít lâu sau
bụng trướng phình và chết .
Một Anh tù khác ăn
con vạc sành (criquet hơi giống con cào cào) bị trúng
độc suýt chết và cũng Anh lần khác nướng 1 con cóc ăn ,
nhưng vì tiếc ăn luôn bộ lòng cóc bị trúng độc (gan công , mật cóc) may nhờ chở
lên BCH cứu kịp – hiện Anh sống ở Mỹ .
Tui cũng bị nạn về ăn
uống khi ở Trại 10 . Do việc vệ sinh của Trại không tốt , những hố phân thường
đầy ruồi nhặng , nên khi chảo cơm hay nồi canh còn nghi ngút khói , ruồi
đã nhào vô kiếm ăn , hậu quả là phần ăn của tù thường có cả nhiều ruồi
chết và tui bị kiết .
Khi bị kiết
thì nhiều hôm dù không ăn uống gì nhưng vẫn phải
luôn đi cầu - có khi ngày trên 20 lần ,phân toàn đàm và máu , thân
thể tui gầy như bộ xương biết đi chỉ còn nặng khoảng 35
kg . Tui đuối sức có khi không giăng nổi cái mùng
phải nhờ người nằm bên cạnh giúp hoặc xuống suối giặt giùm quần áo .
Tuy bệnh không phải
theo các Bạn tù để đi lao động , nhưng tui vẫn phải lao động tại chỗ như chẻ
lạt để lợp nhà , cho đến khi thấy tui đuối quá Trại quyết định
chuyển tui đến Trại Cách Ly ( tức tù bị kiết của tất cả các Trại chuyển
về đây để không lây cho người khác và chờ chết ) .
tù với bộ xương cách
trí
Trong cuộc sống ,
không bao giờ tui nịnh hót ai , nhưng có lẻ do số tui chưa hết
nên lần đó khi Trại đã chỉ định 2 người tù với 1 cái đòn tre , 1 cái võng
( bằng cái mền túm hai đầu) chuẩn bị chuyển tui đi cách ly , thì tui buột
miệng : " trại cách ly đông người , ở đây chỉ vài người
bệnh ,Cán Bộ chăm sóc chúng tôi kỹ , chắc chắn sẽ hiệu quả hơn "
.
Câu nói của tui có lẻ
vuốt ve tự ái , làm mát dạ anh Cán Bộ Y Tá VC nên anh giữ tui lại trại .
Tuy trại chỉ cho thuốc " Xuyên Tâm Liên "
( trị bá bệnh ) , nhưng nhờ tánh mê nghiên cứu về dược thảo , mà
quanh trại lá mơ (lá thúi địch) có công dụng trị kiết mọc
thật nhiều , nên tui hái ăn mỗi ngày và khỏi kiết .
Ngoài ra tui còn có
một may mắn khác : đã thoát chết trong đường tơ kẻ tóc .
Số là gần trại có 1
cây vải rừng cổ thụ , thân cây thật to , từ gốc lên cao khoảng 4- 5 m
suông đuộc chẳng ai leo lên được . Cây vải thật sum sê trái sắp
chín nhưng chỉ có chim và khỉ ăn .
Nhiều người tù đã thử
leo lên hái trái nhưng đều thất bại , tui gốc dân quê leo trèo giỏi cũng có thử
nhưng cũng không thành công ( những sợi dây luộc dài mà chúng tôi bện
trong Nam đều đã bị tịch thu hết trong những lần kiểm tra) .
Một buổi sáng chúa
nhật nọ , thấy có Anh Tuyên Uý Công Giáo (cha N.Q.T) vắt vẻo trên
cây vải và đang hái trái . Tui bảo thằng bạn khom lưng xuống để tui
đứng trên vai nó rồi thêm ít cố gắng tui leo được lên cây .
Tui hái trái vải dồn
đầy bao cát mang theo và bẻ nhiều nhánh vải ném xuống bên dưới . Một bạn
tù ăn thử hạt vải thì thấy béo như hạt đậu phọng , hạt
điều liền báo cho mọi người biết .
Hôm đó , tù được ăn
bánh bột mì và mỗi người được lảnh 100 g đường , thế là có nhiều người
bày cách nấu chè hạt vải ăn . Hậu quả là sau đó có vài người trúng độc
chết và khoảng 20 người bị ĐIÊN phải chuyển lên Đoàn
chửa , mấy tháng sau mới khỏi .
Tui cũng có ăn vài
chục hạt vải luộc nhưng may không chết , cũng hổng bị điên (nhờ khi
đó Trời kêu nhưng tui đã giả điếc không nghe
và không dạ )
***
Khoảng giữa năm 1977
chúng tôi bị chuyển về Trại K1 – Tân Lập – Vĩnh Phú .
Thiên đàng , địa ngục
có – không ? hay chỉ do con người dựng lên nhằm răn đời , nhưng Trại
K1 – TL-VP là địa ngục thì thật , 700 tù chuyển về đây trong hơn 2
năm đã có 125 người chết .
K1 – TL là trại được
Bộ Công An chọn làm kiểu mẫu với cách quản lý thật khắc nghiệt . Trại
Trưởng là tên Thiếu Tá Công An Nguyễn huy Thuỳ . Với thành tích vô cùng
độc ác , từ Trung Sĩ Quản Giáo hắn được cất nhắc lên tới chức Thiếu Tá
Trại Trưởng . Tuy nhiên , không phải chỉ do thành tích man rợ mà hắn có được
địa vị này , thực ra là hàng tháng vợ hắn phải " tu trang " và
đem xác hiến dâng cho các chức sắc VC nắm vận mệnh của NHT và người
vợ này đã lợi dụng thế yếu của hắn nên xem hắn chẳng có kí lô nào
.. Hắn không dám phản ứng chống lại cấp trên và vợ nên bao khổ đau , uất
hận đều trút hết lên đầu lũ tù VNCH sa cơ thất thế .
Phụ tá đắc lực cho NHT
là tên Cán Bộ An Ninh Hồng - tên hung thần ác sát này đã trực tiếp
hoá kiếp hàng trăm người tù VNCH ở trại K1 mà đa số là những vị Trung Tá
già yếu , bệnh tật (các TrTá Hậu , Lạc , Phong ... ) . Nhưng lưới trời lồng
lộng "ác giả ác báo " , vợ hắn 4 lần sanh đều không
đứa con nào sống sót .
Ngoài ra , tên
cán bộ an ninh Hồng còn chỉ định 1 tù hình sự tên Phú làm
Trưởng Ban Trật Tự của trại . Tên này nguyên là Võ Sĩ ở Hà Nội , can tội
giết vợ và chị vợ để lấy 3 chỉ vàng đánh bạc . Hắn là hung thần của tù-
nhất là tù hình sự , tui có lần chứng kiến hắn treo lủng lẳng một tù hình sự
gầy như bộ xương cách trí (tội nhổ trộm sắn) để 2 tên công an vũ trang đấm đá
như dượt võ với cao cát , thậm chí chúng còn dùng báng súng AK và nòng
súng dộng vào ngực , bụng tên tù đến trào máu họng .
Có điều là sau lần bị
người tù VNCH tên La Đạo Sĩ (nguyên là tu sĩ ở núi Cấm – Châu Đốc )
võ nghệ cao cường dạy cho một bài học , hắn kiềng mặt không còn dám hiếp
đáp tù CT như trước ( từ đây tui dùng từ tù CT thay cho
chữ tù VNCH).
Một điều lạ nữa
là trong 25 đội tù , thì vài đội tù hình sự Đội Trưởng
, Đội Phó toàn là loại " đầu gấu " (du côn ,độc
ác ) , còn ĐT , ĐP của các đội tù CT thì hầu hết là những SQ/Cảnh
Sát ' nhiều tiến bộ " trong đó Đội
13 với Tr. Tá Năm làm ĐT là khủng khiếp nhất . Khi Tr.Tá
Năm chết vì ăn măng trúng độc thì Đ/U Thống thay , còn sắt máu
hơn .
Tui đã qua 4 trại tù ,
nhưng phải nói là ở Trại K1 – TL , tù CT làm ăng ten nhiều như rươi , do bị VC
dụ dỗ " lập công với cách mạng sẽ được cứu xét về sớm "
. Bản thân tui trong thời gian ở trại này đã bị ăng ten tố cáo 4
lần vì những việc thật cỏn con (nhổ nấm mèo mọc hoang , kể chuyện
cái miểu ở Hoàng Sa , được tù hình sự cho muỗng muối ) .
Buồn cười là khi tui
được chuyển từ nhà tù nhỏ ra nhà tù lớn của xã hội (được tạm tha)
thì hầu như những vị ăng ten vẫn còn được VC tin dùng ở lại
giúp chúng .
Việc ăn uống ở trại K1
– TL thì tồi tệ hơn những trại trong Nam hay ở Hoàng Liên Sơn .
Trên nguyên tắc thì tù mỗi tháng được ăn 15 cân (Kg) sắn , bo bo , bắp …
, nhưng thực tế thì không như chúng nói khiến tù đói phờ râu . Ở HLS , bộ đội
còn cho phép tù kiếm thêm rau cỏ để cải thiện , còn ở K1-TL thì tuyệt đối cấm ,
ai vi phạm thì bị cùm .
Ở trại K1-TL thì trừ
đội nhà bếp (hình sự phụ trách) , đội xay xát , đội xây dựng , đội
làm gạch còn lại tất cả là những đội nông nghiệp trồng lúa , nếp ,
sắn , rau .
sắn lát
Quanh trại thì sắn
được trồng thật nhiều , nhưng khi tù phải ăn khoai mì 70 món thì
thường là sắn dui (sắn xắt sợi phơi khô) hoặc sắn đẻo
(sắn xắt lát phơi ) thật hôi mốc , nếu trước 1975 đem nuôi heo miền
Nam chúng cũng lắc đầu hổng ăn .
Bo bo là thực phẩm
nuôi gia súc do Ấn Độ viện trợ , nếu không vỏ ( ý dỉ ) đem nấu chè sâm bổ
lượng ăn cũng ngon miệng , nhưng nếu còn vỏ thì ăn bo bo sẽ thải ra bo bo ( của
thiên trả địa vì bao tử con người không tiêu hoá được vỏ bo bo như gà ,
vịt …) .
Còn ăn bắp dù là bắp
trái hay bắp hạt càng khổ hơn vì cả hai đều cứng như đá - tù gọi là bắp
đá (các hợp tác xã ngoài Bắc thu hoạch bắp phơi thật khô rồi đóng thuế
cho nhà nước ) . Bắp trái thì lưa thưa ít hạt , còn bắp hạt hoặc bo
bo thì thường có lẫn với than đá do được chở cùng toa
xe lửa khi thì than đá , khi thì chở hạt nhưng không được chứa trong bao
bì . Bắp đã cứng , củi lửa lại thiếu , tù hình sự nấu ba sồn bốn sực ,
nên ăn những thứ này tù khổ vô cùng nhất là những người thiếu hoặc không còn
răng .
Tui thuộc thành phần
này , vì răng mục , gảy , nhiều khi đang trệu trạo nhai thì cảm thấy là
lạ , lấy lưỡi rà thì có 1 miếng hay 1 cái răng nào đó đã theo bắp đi viếng cái
bao tử . Nhiều khi răng , nướu đau , hai bên má sưng như ngậm 2 trái mù u ,
nhưng để sống còn tui vẫn phải đưa những hạt bắp tới nóc giọng và nuốt như
người Pháp gaver vịt , ngổng nuôi để lấy gan lớn .
Tuy biết vi phạm nội
quy của Trại phải bị cùm , nhưng vì bản năng sinh tồn khi đói quá nếu có dịp
thì ai cũng "CHÔM CHỈA" .
Bản thân tui vì nghĩ
đoạn đường tù của mình đã khá lâu , nếu vi phạm nội quy VC có thể
cho là chưa tiến bộ để không thả , nên tui không bao giờ
" thu hoạch linh tinh – trộm
" hoa màu của Trại . Tuy nhiên tui cũng có lén ăn bậy .
Một lần ở Đội Nông
Nghiệp , lợi dụng tên công an vũ trang ngó lơ , tui lén nhổ vài cây rau
chóc (giống rau mác nhưng cọng chỉ nhỏ bằng ngón tay út ) ở bờ
ruộng , rửa sơ nước xâm xấp đầy phân người (phân bắc ) , phân
trâu và phân xanh để chuẩn bị cấy lúa , rồi nhai nuốt vội cho bao tử không nổi
loạn . May quá ,thật mất vệ sinh nhưng lần đó tui hổng bị bệnh .
Lần khác , đội tui
phải trồng bắp theo kiểu của dân du mục bán khai , tức dùng 1 cọc nhọn
chọc 1 lỗ thủng dưới đất , bỏ hạt bắp giống xuống lỗ rồi dùng chân lắp đất lại
, sau đó trăm sự nhờ trời . Bắp có mọc hay không thì tuỳ mưa hoặc không
bị mối ăn và cây bắp mọc mà có trái hay không thì lại nhờ sự mầu mở của
đất . Có điều VC không biết là bắp chỉ mọc lưa thưa nhưng không phải do
mối ăn mà thay vì bỏ hạt xuống lỗ , hầu hết tù đã bỏ vào mồm .
Rồi có lẻ do ăng ten
báo , nên những lần sau hạt bắp giống đều bị VC ngâm trước trong
nước pha DDT .
Một lần , thấy vài Bạn
tù ăn vỏ sắn nướng - trông ngon lành như bánh tráng nướng , tui cũng bắt
chước , nhưng nhờ rút kinh nghiệm về mấy Ông Trung Tá bị chết do ăn lá sắn luộc
ở Trại 5 – HLS và việc đàn heo của Trại 10- HLS chết sạch vì ăn vỏ sắn nấu ,
nên tui chỉ nhâm nhi tí xiu cho " thơm râu " thôi
( chỉ 50 mg acide anhydric trong sắn đủ làm chết 1 người nặng
50 kg ).
Ở Trại tù K1-TL-VP số
tù chết vì vấn đề " ăn uống linh tinh " khá
nhiều như : Trung Tá Năm chết vì ăn nhiều măng trúng độc , Trung
Tá Quá chết vì ăn cây dền kiểng ,Đại Uý Cảnh Sát T.H.Nghĩa bị
phù thũng chết vì ăn canh đại dương có chút mắm ruốc ...
.
Tui và nhiều người tù
khác cũng bị phù thũng nặng trong thời gian này , nhưng nhờ được ăn chút
cám và hàng ngày lén ăn cỏ cứt lợn (cỏ cứt heo có tính kháng viêm)
nên đã không bị hoá kiếp .
Ở trại K1- TL có câu
tù đùa với nhau " con gì nhúc nhích chàng ta chén
liền " (chén tiếng lóng là ăn) , nhưng phải nói rõ là con đỉa ,
con vắt , con dòi , con dán thì dù đói chúng tôi cũng không ăn .
Tuy nhiên , trong thời
luyện chưởng ở Trại K1-TL tui cũng được thưởng thức những món ăn nhớ đời .
Khoảng năm 1979 , khi
thấy tù bị chết nhiều quá VC nghĩ ra sáng kiến" nhờ
gia đình người tù nuôi hộ giùm đảng và nhà nước " bằng cách cho
gửi quà – lúc đầu là 3 kg rồi 5 kg , 10 kg và cho thăm nuôi . Nhiều người
tù gia đình trước khá giả đã gửi đường , sửa bột , mì ăn liền ... cho người thân .
Một buổi chiều chúa nhật mưa tầm tả , tui
không ra sân được ( VC cũng cấm tù lán này đến lán khác)
, lại không có quà nên nằm nhắm mắt nghe bao tử " kêu ột ột "
, còn những người tù có quà thì tụ lại trao đổi với nhau những ngụm
sửa hay những gắp mì . Mùi hành phi của mì thốc vào mũi tui như con chuột Jerry
trong phim hoạt hoạ bị mùi pho mai quyển rũ , tui thật khổ
sở (vì tù có quà chỉ chơi với nhau) , nhưng bỗng có
tiếng « cộp « nhẹ cạnh mình , mở mắt ra thì
thấy 1 cục kẹo dừa Bến Tre do 2 con chuột cắp của ai đang đuổi cắn nhau
giành ăn dưới mái nhà đánh rơi . Tui lột giấy bao , bỏ kẹo vào
miệng , chất béo của nước cốt dừa chạy dài từ cuống họng xuống bao
tử tui giống như khi uống ly rượu mạnh .
Trong cuộc sống tui
từng ăn thật nhiều loại kẹo , nhưng chưa bao giờ ngon như khi ăn cục kẹo này .
Một hôm Trại K1" ngả " ( làm
thịt ) lợn ( thường chỉ do tù hình sự phụ trách để cán bộ VC dễ chấm mút ) .Hôm
đó sau khi cấy mạ xong , Đội tui được gom về Ao Xả để tắm giặt ( ao
rộng khoảng 2- 3 hecta tù không thể trốn thoát được) . Tui cảm thấy bị ớn
lạnh nên không tắm mà chỉ ở chỗ cạn để rửa bùn sình 2 chân và chợt thấy
dưới dạ cầu có cục mở heo to bằng bắp tay , tui chớp ngay và dấu ở hạ bộ
(khi tù trở về trại thường bị ban trật tự đứng trước cổng lục soát khắp
mình mẩy tù , nón, ca , cống ... để tịch thu rau , củ ... mà tù giấu ) .
Khi vào lán , tui kể cho 1thằng bạn tù , nó phân công tui đứng canh chừng , còn
nó lấy 1 nhúm đóm ( tre , nứa chẻ mỏng , phơi khô để mồi lửa hút thuốc lào )
và cục mở vào trong cái nhà hoang xây chưa xong bỏ dở vì thiếu vật
liệu . Lát sau nó đem ra
cục mở chưa đủ chín , đen thui vì khói bám , chia đôi và 2 đứa thanh toán
sạch .
Ôi miếng mở ngon tuyệt vời
Lần khác , trước khi
xuất trại lao động thì cán bộ VC đọc danh sách những người có quà được ở lại
trại để lảnh . Một Bạn tù có lúc chung đội Nông Nghiệp với tui dặn :
" chiều lao động về mày chạy sang gặp tao ". Buổi
chiều , lợi dụng lúc tù đi lảnh cơm chộn rộn , tui đến
gặp nó thì được nó cho 2 miếng bánh mì biscottes trét bơ thực vật
và đường cát . Tui ăn ngấu nghiến miếng bánh mì ngon nhất đời .
Một hôm , khi đang leo
lên triền núi để kéo cây củi bị chết cháy do đồng bào thiểu số đốt tranh
lấy tro để trồng trọt , tui thấy 1 con rắn hổ chết đã thành
khô . Cỏ tranh khi cháy bùng thì những con mển , chồn ... chạy nhanh để
tẩu thoát , chim cũng bay xa nhưng rùa , rắn không chạy kịp bị lửa nóng chết ,
sau đó nhiều ngày dưới ánh nắng mặt trời trở thành khô . Tui nhặt xác rắn
, chặt bỏ đầu chôn dưới đất rồi bẻ 1 khúc khô rắn bỏ vào miệng nhai .
Đang ngồm ngoàm thì 1 Bạn tù - dân QGHC ,Trưởng Ty Xã Hội Tỉnh Gia Định , cách
đó khoảng hơn mươi mét hỏi " ê ăn gì đó mậy " . Tui
rủ Anh lại để cùng ăn . Con rắn dài khoảng 1,80m , nhưng chỉ hơn 10
phút sau chúng tôi đã thanh toán sạch .
Tui đã từng thưởng
thức khô bò , khô nai , khô cá thiều..., nhưng lần ăn khô rắn đó là ngon nhứt
đời .
....................................................
.
Chuyện ăn uống ở những
trại tù của VC thì tuỳ hoàn cảnh mỗi nơi một vẽ , nếu viết thành trường thiên
tiểu thuyết chắc cũng không kể hết được .
Do đó tui kể lể đôi
điều này để các Bạn từng nếm mùi nhớ lại kỹ niệm thời học ở " ĐẠI
HỌC MÁU " , còn những ai chưa từng biết gì về thiên đàng CS
thì đọc để mua dzui hoặc ít ra thông cảm hơn với người lính
VNCH .
Paris , chớm thu 2017
HQ.tkd