Chuyện trái vải rừng
Sau một năm ở Long-Giao - Long Khánh , chúng tôi được lệnh chuyển trại để đến ‘’ một nơi thuận lợi hơn cho việc học tập ‘’ .
Chúng tôi được chở bằng Molotova đến Tân cảng , rồi từ đó di chuyển bằng đường thuỷ . Khoảng 3.000 cải tạo viên chen chút nhau trong lòng chiếc Sông-Hương được đậy nắp chỉ chừa khoảng hở hơn 1 mét để không khí vào .
tàu Sông Hương ( Việt Nam Thương Tín trước 1975)
Mọi người đều nghỉ ‘’ có lẻ sẽ được chuyển ra Phú-Quốc ‘’vì nơi đây trước 1973 ( trước khi hiệp định Paris được ký kết ) có một trại nhốt khoảng 50.000 tù binh Cộng-Sản . Phần tôi , vì là Hải-Quân quen nhìn phương hướng , nên khi tàu ra đến biển vào buổi sáng , thấy ánh sáng mặt trời từ tay phải chiếu sang , tôi nói với những người bên cạnh rằng tàu đang đi về hướng Bắc . Tin lan đi , nhiều gương mặt bổng đăm chiêu , nhưng cũng có nhiều người chưa tin , họ đề nghị tôi nên kiểm chứng lại . Họ sắp xếp để tôi và một người khác khiêng thùng phân và nước tiểu lên bong tàu để đổ xuống biển .
Khi trở xuống , tôi xác quyết về điều tôi đã nói trước đó . Mọi người đều lo lắng và buồn bả , nhưng dỉ nhiên cũng có một số bán tín bán nghi .Phải đợi đến khi tiếng loa từ trên bong tàu vọng xuống ‘’ long trọng báo cho các anh , chúng ta đang tiến vào lảnh thổ miền Bắc Xã-Hội Chủ Nghĩa ‘’, chừng đó mới không còn ai thắc mắc .
Sau khi rời chiếc Sông-Hương , chúng tôi được chuyển về miền Thượng du Bắc Việt , khi thì bằng xe lửa , khi bằng Molotova , khi bằng phà , khi đi bộ ... và được dàn chào thật kỷ : bị ném đá vào toa xe lửa , bị mắng chửi dọc lộ trình di chuyển ... v.v .
Đến Yên-Bái , 300 đứa chúng tôi được đưa đến một khu trại đang xây dở dang gồm 3 lán ( nhà dài ) . Tôi may mắn được ở trong 1 lán đã có nóc và sạp nằm đan bằng nứa . Trong khi một người bạn H.Q của tôi được ở trong 1 lán chỉ mới có nóc . Lán anh lại nằm sát cạnh 1 cái ao nước đọng . Ngay buổi sáng hôm đó , đội anh được cung cấp dao để chặt phát cây , cỏ mọc quanh ao . Đến chiều , số người phải lội xuống hay dẩm nước dưới ao bị sốt vàng da và đến tối thì đã có 1 người chết . Riêng anh bạn tôi , tuy cũng bị sốt và đái ra máu , nhưng may mắn thoát chết ( hiện anh đang ở California ) .
Thời gian tôi ở trại này không lâu , nhưng cũng có vài chuyện ngồ ngộ :
- Số là 3 lán của trại tôi được xây theo hình chữ U . Mỗi khi sinh hoạt , các đội đều tập hợp ở sân nằm giữa 3 lán , nhưng anh Quản Giáo của đội tôi lại luôn dẩn đội lên 1 cái đồi nhỏ cách đó hơn trăm mét , để nói chuyện không theo đường lối của đảng C.S và nhất là để chửi bọn Trung Cộng ( không biết anh có vấn đề gì mà luôn xỉ vả bọn Tàu , trong khi chế độ C.S thời đó luôn ngoác mồm là đồng chí vĩ đại Trung Quốc ) .
- Anh Quản Giáo của đội tôi là 1 Thượng-Uý Đặc Công thuỷ , không biết xét lý lịch của tôi H.Q , chắc nghĩ là ‘’ bà con ‘’, một hôm anh gọi tôi ra nơi anh ở trọ nhà của dân để làm mộc . Tôi cho biết là không biết gì về mộc . Anh bảo cứ đi theo anh , nhưng thật bất ngờ tôi không phải làm gì cả mà chỉ đến để nghe nhạc vàng Thanh-Thuý hát .Vài tuần lễ sau , anh bị thuyên chuyển .
trại tù VC
Phần tôi , khoảng tháng sau lại phải chuyển trại . Chúng tôi được biên chế từ 14 trại tù trong tỉnh Hoàng-Liên-Sơn ( chúng tôi gọi đùa với nhau là cuộc tuyển lựa tài tử thượng thặng ) gom về Trại 10 . Trại tôi có một số nhân vật khá nổi tiếng như : Phan-Nhật-Nam , Phan-Khắc-Huồn ( G.Đ Chương Trình Tiếng Gọi Tình Thương ) , Lê-Quang-Văn ( em Ông Ba Cụt Lê-Quang-Vinh ) ,...v.v .và đa phần là các vị Tuyên-Uý .
Thời này , bộ đội còn quản lý chúng tôi nên cuộc sống tương đối dễ thở . Chúng tôi chỉ phải lao động mỗi tuần từ thứ hai đến trưa thứ bảy , chủ yếu là xây dựng nhà cửa , phát quang , trồng sắn ( khoai mì ) ... và học tập chính trị .
Chúng tôi được chia thành Đội và Tổ để lao động và học tập . Tôi bị chỉ định làm tổ trưởng của 1 nhóm 15 người gồm 1 Trung Tá thuộc P3/TTM , 1Trung Tá TP2/SĐ2 BB , em Ông Ba Cụt ( biệt danh là Tướng Cướp Bảy Ớt ) , 1 Đại Uý SĐ7 BB , 1 Đại Uý ĐPQ , số còn lại là các vị Tuyên Úy .
Ngày đầu , tôi nhận lệnh dẩn tổ đi đẵn chỏm , chỉ tiêu mỗi người một bó .Từ đẵn thì trong thơ của Bà Huyện Thanh Quan : tiều phu vài gả đẵn cành , tôi hiểu được , nhưng chỏm là gì tôi chịu thua , hỏi Cán Bộ Quản Giáo thì được biết là một loại cây giống như cây nứa , nhưng chúng tôi chỉ được phát mỗi người 1 chiếc liềm . Hỏi thì được trả lời là chưa có dao , phải khắc phục ! .
Hôm sau, Tôi nhận lệnh dẩn tổ đi đốn bồ đề ,chỉ tiêu mỗi anh 2 cây . Chúa ơi ! gần nhà tôi ở Phú-Nhuận có chùa Quán Thế Âm ( chùa do Hoà Thượng Thích-Quảng Đức trụ trì ) có cây bồ đề to tổ bố . Cả tổ chưa chắc đã chuyển nổi 1 cây , làm sao mà mỗi anh phải đem về 2 cây . Tôi nêu thắc mắc và được giải thích rằng tuy có trùng tên nhưng chẳng dính dáng gì với cây bồ đề ở miền Nam , bồ đề ở miền Bắc là một loại cây công nghiệp dùng làm giấy và xuất khẩu . Thân cây suông , thẳng , cao khoảng 15 mét , đường kính có khi đạt đến 4 tấc .
Thời này , chủ yếu là xây cất trại . Trước kia , chúng tôi đều xuất thân từ đi học , rồi đi lính , làm công chức , đi tu ... có ai là thợ mộc , thợ nề gì đâu . Bổng dưng lại thành thợ xây cất bất đắc dỉ . Có điều thật ngộ là kể cả xây lán ( thường 20 mét dài , 5 mét ngang ) cũng không bao giờ có tí gì là kim loại , tất cả đều là nguyên liệu cung cấp bởi thiên nhiên : dây buộc thì có mây rừng , lạc giang ; cột ,kèo thì dùng gổ ; còn tre , nứa , chỏm thì chủ yếu dùng làm rui , mè , lợp mái nhà , làm sạp nằm , làm vách ( nứa chẻ cột thành thưng , rồi trát bằng bùn nhồi với cỏ ) .
Sau khoá xây cất này , khi được thả về , tôi nghiểm nhiên thành chuyên viên giúp hàng xóm trong việc xây cất thật ngon lành .
Ngoài việc lao động , mỗi tối chúng tôi còn phải họp tổ để kiểm thảo , bình chọn cá nhân xuất sắc , học lại 5 , 6 bài chính trị rập khuôn như hồi còn ở miền Nam , cũng với những lời khoác lác , ngớ ngẩn như ‘’ các đồng chí phi công anh hùng của ta đem MIG lên trên mây , rồi tắt máy , phục kích chờ con ma (phantom ) , thần sấm ( Thundershift ) của Mỹ đến , vồ lấy , bắt cả giặc lái Mỹ ...v.v ...’’ . Chúng tôi đã vổ tay như sấm nổ và cười ( thầm ) đến ra nước mắt .
trồng khoai mì - ăn khoai mì
Về việc ăn uống của chúng tôi thì tệ hơn khi còn ở trong Nam nhiều . Nếu trước kia tuy phải ăn gạo sâu , mục nhưng không phải độn và hàng ngày được chút cá biển , rau bí..., thì nay không có hạt gạo nào , chỉ toàn bắp xay , bo bo , khoai mì , thỉnh thoảng mới có bánh mì luộc ( bột mì nhồi với nước , nắn thành bánh như bánh tiêu rồi đem luộc ) và tí canh kho ( vài cộng rau với nước muối ) .
Chúng tôi tuy có chăn nuôi một bầy lợn và trồng khá nhiều rau , nhưng chủ yếu là để cung cấp cho Đoàn ( tức BCH/Liên Trại ) và nuôi bộ đội , nên hầu như chẳng có phần cho chúng tôi .Có điều lý thú là nhờ sự chỉ đạo xuất sắc của họ mà chúng tôi được hưởng hầu như trọn đàn lợn . Số là họ bắt chúng tôi xắt chuối rừng , nấu với rau trai , vỏ sắn , muối rồi đem cho heo ăn . Họ không biết rằng trong vỏ khoai mì có chứa rất nhiều acide Anhydric vô cùng độc hại , đàn heo ăn phải kể cả những con heo gấu ( gần giống với lợn rừng ) lần lượt chết sạch .
Trong việc nuôi heo có một chuyện thật đáng thương tâm, đó là việc 1 anh Tuyên Uý Phật Giáo phụ trách nuôi heo . Anh đi tu từ còn bé ,dáng thật lực lưởng , hàng ngày có nhiệm vụ đi đốn chuối rừng về nuôi heo , nhưng vì luôn đói do khẩu phần quá ít , mỗi hôm anh lén ăn sống lỏi vài cây chuối rừng , hậu quả là một thời gian sau , bụng anh bị chướng lên to như bụng phụ nữ có thai 5,7 tháng và cuối cùng là anh từ giả cỏi đời .
khóc Bạn
Bản thân tôi cũng gặp nạn trong thời gian này . Như ở bất kỳ trại cải tạo nào , vấn đề vệ sinh đều thật tồi tệ . Cơm , canh nhà bếp vừa múc ra khỏi chảo là hàng đàn ruồi đã nhào vô kiếm ăn , dỉ nhiên là trong cơm , canh lại có thêm vô số’’ đậu đen’’.
Tôi không may nên bị kiết , mỗi ngày phải đi ngoài hàng chục lần ( có hôm hơn 30 lần ) chỉ toàn đàm với máu . Người tôi gầy tọp , chỉ còn da bọc xương , có khi không còn đủ sức để ngồi dậy giăng chiếc mùng , phải nhờ anh bạn giúp cũng như xuống suối giặt giùm quần áo . Dù vậy , tôi vẫn phải lao động , ngồi tại chỗ để chẻ lạc .Thuốc men thì chỉ có xuyên tâm liên nên bệnh tôi ngày càng trầm trọng .
Tuy nhiên số tôi chưa hết nên khi họ định chuyển tôi đến trại cách ly ( tù bị kiết ở các nơi , chuyển về đây để chờ chết và để không lây cho tù khác ) , tôi đã buộc miệng đề nghị cho được ở lại Trại với lý do ở đây Cán Bộ Quân Y chăm sóc cho một mình tôi chắc chắn sẽ hữu hiệu hơn ở trại cách ly quá đông người . Có lẻ lời tôi đã vuốt ve tự ái của anh cán bộ Quân Y , anh có vẻ hài lòng nên quyết định giữ tôi lại .
Thêm một điều may mắn khác là hồi còn nhỏ tôi rất thích nghiên cứu về dược thảo , tôi biết được lá thúi địch ( còn gọi là lá mơ ) trị được kiết nhiệt , quanh trại tôi lại có mọc thật nhiều loại lá này , thế là hàng ngày tôi hái lấy ăn sống như heo ăn cỏ và rồi tôi hết bệnh .
lá thúi địch
Trong năm đầu nơi đất Bắc , chúng tôi chưa được phép liên lạc với gia đình nên chưa được tiếp tế , khẩu phần ăn lại quá ít , do đó bị đói kinh niên . Bộ Đội ít hắc ám hơn Công An nên cho phép chúng tôi được tự động cải thiện thêm ( từ cải thiện có nghĩa kiếm cái gì để ăn thêm ) và chúng tôi đã tận dụng chiều thứ bảy và chúa nhật không phải lao động để đi kiếm ăn . Thường thì hái lá mối vò làm sâm ăn hay đi kiếm rau . Phần tôi luôn với 2 bao ( bao chứa cát làm công sự phòng thủ ) , 1 để chứa rau má , 1 để chứa lá lốt ăn dần trong tuần .
lá lốt
rau má
Sở dỉ tôi luôn hái thật nhiều lá lốt vì lý do sau đây . Anh Trung Tá TP2/SĐ2BB trong tổ tôi tuy đã lớn tuổi nhưng còn thật khoẻ . Có lần tôi đùa bố Q lớn tuổi mà lao động khoẻ còn hơn cả thanh niên trẻ . Anh trả lời cậu nói thế chớ trước kia có lần tôi bị bệnh gần như bán thân bất toại đó .Tôi hỏi tiếp thế Bố làm sao khỏi . Anh cho biết vì gia đình khá giả , nên ai bày cho thuốc tây , thuốc ta, thuốc bắc gì cũng đã thử qua , nhưng phải đến khi dùng thật nhiều lá lốt nấu uống một thời gian dài mới khỏi được bệnh .
cây trái vải
Rồi một việc không may khác xảy đến trong trại chúng tôi thật khủng khiếp .
Trong khu vực trại có một cây vải rừng ( còn có tên khác là vải thiều hay vải guốc ) , có lẻ mọc từ lâu đời nên thân cây thật to , tàn lá sum sê và có thật nhiều trái , nhưng vì từ gốc lên cao khoảng 4 thước thân cây không có nhánh và vỏ cây thật trơn láng nên chỉ có khỉ và chim ăn trái vải , còn con người thì chưa ai leo lên được .
Cho đến một sáng chúa nhật nọ có 1 Tuyên Uý Công Giáo ( Cha N.Q.T ) không biết làm cách nào anh ta leo lên được và một mình một cỏi tha hồ hái vải cho vào bao .Một số người cũng cố leo lên nhưng đều thất bại .
Tôi cũng thử và cũng không thành công . Tôi vốn sanh trưởng ở miền quê , leo trèo giỏi , thế mà đành bó tay , thật đáng tức , nhưng không bỏ cuộc , tôi bảo một anh bạn kê vai nâng tôi lên và thêm một ít cố gắng cuối cùng tôi thành công . Tôi hái thật nhiều vải cho vào bao mang theo , nhưng đồng thời cũng bẻ thật nhiều nhánh quăng xuống cho bên dưới .Các bạn tù xúm nhau vừa nhặt vải , vừa ăn . Có một anh ăn cả hột và phát hiện rằng thật béo như đậu phọng hay hạt điều . Nhiều bạn tù khác bắt chước anh .
Sau khi đã hái đầy bao ( khoảng vài nghìn trái ) , tôi tụt xuống đem vải về trại cất , rồi xách cần đi câu cá ( tôi vốn mê câu cá từ khi còn thật bé ) .
Đặc biệt hôm đó trại tôi được ăn bánh bột mì và mỗi người được lảnh khoảng 100g đường . Thế là một số bạn tù nghĩ ra việc nấu chè với hạt vải ăn .
Riêng tôi , đi câu đến chiều được vài chục con cá bải trầu và cá lòng tong , tất cả tôi đem kho thật mặn để ăn dần . Xong tôi luộc 1 lon gô ( lon Sửa Guigoz ) hạt vải và nhờ thằng bạn nằm bên cạnh trông giùm , rồi đi gặp Cán Bộ Quản Giáo để nhận công tác của tổ hôm sau .
Khi tôi trở về lán thì tất cả anh em đã chui vào mùng , chỉ còn thằng nằm bên cạnh và một anh khác là chưa đi ngủ . Tôi phổ biến công việc của ngày mai cho mọi người xong rồi lấy vải cho 2 anh chưa vô mùng , mỗi người khoảng trăm trái , những anh tổ viên khác , định bụng ngày mai sẽ cho tiếp . Tôi ăn khoảng mươi hột vải đã luộc chín , xong đi ngủ , số còn lại 5, 7 chục hột dành để sáng mai ăn trong khi di chuyển .
Tối hôm đó , khi ra ngoài đi tiểu , ngang qua một lán bạn , thấy một số đông đang cạo gió , tôi nghĩ thầm là chắc có luồng gió độc , nên khi trở về lán đã đắp mền thật kỷ kín đến tận cổ . Thế nhưng , sáng hôm sau tôi cũng cảm thấy bị choáng váng .
Hôm đó , tôi phải dẩn tổ đi đến một nơi cách xa trại khoảng 5 , 6 cây số , san bằng một ngọn đồi làm nền cất nhà mới để chuyển trại . Với cây cuốc chim , tôi đã làm việc cật lực , mồ hôi đổ ra như tắm . Ý định của tôi là nhằm giúp cho cơn bệnh lướt qua .Dù vậy , buổi chiều khi trở về trại , tôi như người say rượu , lảo đảo đi không vững , phải chặt 2 khúc cây nhỏ làm gậy chống . Tôi không hề biết rằng đã trúng độc vì ăn những hạt vải . Mải đến khi về đến trại , nghe thông báo từ chiếc loa phóng thanh rằng : ‘’ những anh nào đã ăn hạt vải phải trình diện BCH ngay , để được chở lên Đoàn cứu cấp ‘’ .
Tôi không trình diện , nhưng vội vả đem mấy nghìn trái vải còn lại đổ xuống một khe sâu để tránh cho những người bạn tù khác nhặt lấy ăn .
Số tôi chưa hết , nên may mắn nhờ một quyết định ngẩu nhiên mà phần lớn độc tố đã được mồ hôi loại ra khỏi cơ thể và tôi được tai qua nạn khỏi .
Trong khi đó , những bạn tù khác bị trúng độc được chở lên Liên Trại thì có vài người chết , hơn chục người khác bị điên ( trong đó có anh bạn Tuyên-Uý Phật Giáo nằm cạnh đã luộc giùm tôi gô hạt vải . Tội nghiệp , thương anh , nhưng vô tình tôi đã hại anh . Khoảng 3 tháng sau được trả về trại , anh vẫn còn ngớ ngẩn chưa nhận ra tôi ) .
Về chất độc chết người thì có rất nhiều , nhưng ăn hạt vải mà trở nên điên loạn thì thú thật đây là lần thứ nhất trong đời tôi được chứng kiến và một điều khác tôi cũng không hiểu nổi là :’’ tại sao biết được ăn hạt vải rừng có thể bị chết , nhưng tại sao BCH Trại 10 CS đã không ngăn cản người tù cải tạo ? ‘’.
Đây chỉ là vài mẩu chuyện đã xảy ra trong năm đầu nơi đất Bắc . Năm sau , chúng tôi được chuyển về Vĩnh-Phú , Trại Tân-Lập K1 do Công An quản lý - một tầng địa ngục khác còn khắc nghiệt hơn gấp nhiều lần .
Paris - đông 2007
Kỷ niệm một thời đi tù cải tạo
TKD
Aucun commentaire:
Enregistrer un commentaire